Un poème censuré.
Chers ami(e)s,
Vous connaissez sûrement le grand poète Thế Lữ (1907-1989), le premier auteur de "nouvelle poesie" du Viêt Nam, dont je viens de terminer une série de présentations bilingues sur mon blog avec son poème Nhớ rừng / Nostalgie de la jungle.
Mais si vous avez lu la traduction intitulée « Nostalgie des forêts » de ce poème dans Mille ans de littérature vietnamienne - Une anthologie de Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc (Éd. Philippe Picquier, 1996, pp.199-200), vous n’en avez vu que les 20 premiers vers sur les 47 du poème originel.
La raison en est que les autorités coloniales françaises avaient censuré la deuxième partie du poème lors de sa parution en 1936, l’accusant d’appel au nationalisme. Il est donc étonnant que MM. Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc s’en soient contentés.
Alors, pour remettre les choses à leur place, je vous offre ci-après la version intégrale du poème avec sa traduction.
Dông Phong
PS : Vous pouvez lire la biographie simplifiée de Thế Lữ, ainsi qu’une petite information sur le célèbre Groupe littéraire Tự Lực, dont il faisait partie, sur ma page http://terrelointaine.over-blog.fr/article-th-l-1907-1989-premier-auteur-de-nouvelle-poesie-du-vietnam-1--42406184.html.
Nhớ rừng
Thế Lữ
(Lời con Hổ ở vườn Bách thú, tặng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam*)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ bị nhọc nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa,
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi hát khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc.
Trong hang tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới,
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca - giấc ngủ ta tưng bừng -,
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm riêng phần vùng bí mật
Than ôi ! thời oanh liệt nay còn đâu !
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang tầm thường giả dối,
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng...
Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng
Len dưới lách những mô gò thấp kém,
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.
Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ,
Là nơi giống Hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ !
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi.
Hỡi rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi !
1936
Traduction par Đông Phong :
Nostalgie de la jungle
(Paroles d’un tigre du Zoo de Hanoi, poème offert à Nhất Linh Nguyễn Tường Tam*)
Rongeant ma grosse haine dans cette cage de fer,
Me voilà couché pour regarder les jours et les mois passer,
Méprisant tous ces insolents avec leur faconde
Qui écarquillent leurs petits yeux pour se moquer de ma majestueuse jungle profonde,
Je suis réduit maintenant à cette pénible situation de prisonnier
Pour amuser les gens comme un étrange jouet,
Tout comme cette bande d’ours un peu toqués
Et ce couple de léopards voisins plutôt écervelés.
Je vis encore dans le regret et le souvenir
Du temps où tout puissant je courais librement, ce passé béni,
Me rappelant la jungle aux arbres de grand lignage
Remplie des hurlements du vent, et des grondements des torrents dans les montagnes
Orchestrant un long et terrible chant épique
Quand je me promenais tranquillement sur les pistes
Ondulant mon corps comme des vagues harmonieuses
Dans l’ombre profonde des herbes épineuses.
Dans ma caverne obscure quand j’ouvrais mes yeux divins
Tous les autres êtres se taisaient soudain,
Car je sais que je suis le roi de toutes les espèces animales
Parmi les arbres et les fleurs sans nom et sans âge.
Où sont-elles ces nuits dorées au bord de la source
Quand je m’enivrais de la lune qui s’y était dissoute,
Où sont-elles ces journées d’averse qui faisaient trembler la jungle de tous les côtés
Quand je contemplais en silence mon royaume en train de se renouveler,
Où sont-elles ces aubes dont les arbres verts se baignaient de soleil
Dans le chant des oiseaux - qui me poussait au brusque réveil,
Où sont-elles ces soirées où le sang inondait la forêt
Quand j’attendais la mort du soleil enflammé
Pour conquérir pour moi seul ces zones de mystère,
Hélas ! où est-il maintenant ce temps glorieux de naguère !
À présent je porte une colère de mille automnes
Et je hais cette vie si monotone
Dans ces paysages artificiels et contrefaits
Avec des fleurs soignées, des pelouses taillées, des allées tracées, et des arbres plantés…
Et ce filet d’eau noire qui simule une source sans issue
Se faufilant entre des buttes bassement bossues,
Et ces quelques feuillages innocents sans mystère
Qui essaient d’imiter l’allure déserte
Des éternelles et hautaines contrées forestières.
Ô majestueux paysages des eaux et des monts
Où nous autres Tigres sacrés régnions,
Où tout à mon aise je me défonçais autrefois,
Nous ne pourrons plus jamais nous revoir !
Savez-vous que parfois désabusé
Je laisse mon âme rêveusement flotter
Pour revenir près de vous, mes immenses forêts !
Ô ma jungle si verte et si fière !
* Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1905-1963 était l’initiateur du Tự Lực văn đoàn (Groupe littéraire Par ses propres forces), fondé en 1933.
(Extrait de Đông Phong, Des poètes de ma terre lointaine, Paris, Ed. Publibook, 2008).