“Tượng Đài Alexandre De Rhodes”:
Ai Là Người Hô Biến ?
Trần Điều
|
19 tháng 7, 2009 |
Trong khi thiền sư Vạn Hạnh với tầm nhìn xa rộng cố vấn và thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long để tạo kế lâu dài cho dân tộc còn chưa có một tượng đài xứng tầm ở Thủ đô thì Đắc Lộ đang được người ta "rục rịch cổ vũ" kéo ra đứng ở Thăng Long.
Mảnh đất Việt Nam đã phải chịu 1.000 năm Bắc thuộc và 100 năm Pháp thuộc. Những thế kỷ ngoại thuộc đầy tủi nhục và đau thương ấy cung cấp cho ta cái nhìn nhiều chiều về hệ lụy chiến tranh và bộ mặt thật của những đồng thủ phạm đã tạo ra nó. Chiến tranh xâm lược được cổ động qua những bộ óc và cả những “văn tự” chứa đựng âm mưu đồng hóa.
Trong âm mưu đó, nhiệm vụ căn bản để người dân bản địa quên gốc mất nguồn chính là những hành động triệt tiêu bản sắc văn hóa, phá hoại di sản, áp đặt giáo dục... Điều khủng khiếp là nó được ẩn núp dưới hóa những từ như “văn minh”, “khai hóa” hết sức thâm độc.
Nhưng âm mưu đồng hóa đó lại được một số người chủ ý ca tụng trong một xã hội mà nhiều việc làm, nhiều mối quan hệ đang cần phải làm sáng tỏ dưới khía cạnh “động cơ”.
Đó là những điều người viết buộc phải nhắc đến qua bài viết “
Một Tượng đài ALEXANDRE DE RHODES, sao không...” (sic) của Nguyễn Hàng Tình trên Tia Sáng online ngày 16/7/2009
T (22 tháng 7, 2009 không còn đăng nữa).
Hàng Tình quả là biết “Tàng Hình” khi viết:
“
Hằng ngày khi những cuốn sách được giở ra trong trường học, những trang báo được lật ra đây đó trên khắp các đường phố Việt Nam, cả những trang Web Việt ngữ được bày ra mênh mông trên mạng... có khi nào ta bình tâm để nghĩ về cái gốc gác thiêng liêng của “Tiếng” nước mình, về con chữ, và cả người đã tạo ra”.
Hàng Tình muốn “văn vẻ” đến cái chữ viết La-tinh, và quy hết “công” cho Alexandre de Rhodes (linh mục Dòng Tên, có tên Việt là Đắc Lộ). Đắc Lộ đã học tiếng của người Việt, đã mượn cái tiếng đó để “sáng chế” ra chữ quốc ngữ (chưa đầy đủ khi đó).
Trong bài thuyết trình đọc tại Giáo xứ Công Giáo Việt Nam ở Paris nhân kỷ niệm 400 năm sinh nhật Đắc Lộ (1593-1993), Nguyễn Khắc Xuyên đã viết:
“
Thực ra Đắc Lộ không phải là người sáng chế ra thứ chữ viết theo tự mẫu Latinh. Đây là một sự nghiệp chung của một số giáo sĩ thuộc nhiều dân tộc khác nhau, trong đó đặc biệt là người Bồ, rồi tới người Ý, người Pháp. Nhưng Đắc Lộ là người được nói tới nhiều hơn hết và vì đó kể như có công nhất, bởi vì các tác phẩm của ông còn tồn tại cho tới ngày nay, trong khi nhiều tác phẩm của các đồng nghiệp đã thất lạc…” (
Giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) 1593-1660).
Và Nguyễn Đình Đầu, một trong những người bênh vực Đắc Lộ hết mực, cũng phải công khai thừa nhận “
không một ai trong hội thảo cho rằng Đắc Lộ “là người sáng nghĩ ra chữ Quốc ngữ”, mà chỉ là người học nói tiếng ta từ chính người Việt...” (Bùi Kha -
Biện chính với Nguyễn Đình Đầu).
Chúng ta “bình tâm” nhưng không phải để nghĩ về “cha đẻ” ấy mà là để hiểu rõ hơn về những cố gắng sáng tạo chữ viết của ông cha trong nhiều thế kỷ đã dần định hình một thứ chữ Nôm nhưng đã bị những âm mưu đồng hóa thủ tiêu bằng mọi cách.
Thực ra Hàng Tình chưa tiếp xúc với những tranh luận gần đây (năm 2008) giữa Bùi Kha và Nguyễn Đình Đầu về Đắc Lộ trên tạp chí Hồn Việt và trên sachhiem.net, nên mới nhắm mắt mà viết “
cha đẻ ra chữ viết tiếng Việt hiện đại, chữ Quốc ngữ, ông Alexandre de Rhodes - một người sinh ra từ vùng Avignon (Pháp), có gốc Do Thái ấy, biệt khuất chúng ta kể từ rất lâu rồi, vào thế kỷ XVII”.
Hàng Tình so sánh: “
Nhìn quanh các nước Đông Á, nhận ra lịch sử đã đưa đẩy ngôn ngữ Việt ta thoát ra khỏi hệ thống chữ viết tượng hình, khỏi món nợ “vay mượn” dai dẳng lối ghi âm (chữ viết) Trung Hoa, cái ước mơ đau đáu Nhớ Cụ mà người Nhật, Triều Tiên chưa thực hiện được. Với chữ viết (có được như hiện nay), rõ ràng là cái rõ nhất chúng ta có độc lập, đang thực sự độc lập”.
Ông cha ta đã từ chữ viết tượng hình của người Trung Hoa mà sáng tạo ra chữ Nôm trong hoàn cảnh ý thức về một dân tộc cần phải có chữ viết riêng. Chưa thể làm gì hơn cho việc phổ biến chữ viết ấy thì quân Pháp xâm lược Việt Nam. Đắc Lộ từng thừa nhận:
“Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Ðàng Trong, ở Ðàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất.” (Hành trình và truyền giáo).
Giám mục Puginier, người có công lớn trong việc chiếm phá chùa Báo Thiên để xây nhà Thờ lớn Hà Nội (hiện nay) thì không ngần ngại tuyên bố:
“…tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An Nam (chữ Quốc ngữ, BK),
rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Ðông”.
Cứ như lời của Puginier nói thì mục tiêu cuối cùng trong công cuộc đồng hóa là người Việt sẽ sử dụng tiếng Pháp. Và nếu không có những người cộng sản thì chắc người Việt sẽ không viết như chúng ta hôm nay, để cho ai đó “kể công” của Đắc Lộ mà không màng đến liêm sỉ quốc gia. Không hiểu sao Hàng Tình “đóng đinh” rằng “
chúng ta có độc lập, đang thực sự độc lập” khi thoát ra khỏi cái chữ tượng hình. Mượn của Trung Hoa thì không có “độc lập”, còn mượn của Latinh thì có “độc lập” thực sự chăng?
Hàng Tình hiểu “độc lập” này như thế nào? Giống như quốc gia Philippinne nói và viết hoàn toàn bằng chữ Latinh, còn bản sắc thì mất gần hết chăng? Còn người Nhật, hiện nay họ vẫn sử dụng phần lớn chữ Trung Hoa nhưng văn hóa của họ, tiếng nói của họ có biến mất không? Có ai bảo họ không có “độc lập” không? Các nước sử dụng mẫu tự Latinh ở phương Tây sẽ định nghĩa sao về “độc lập” cho riêng mình?
Chưa hết,trong Thư đề ngày 12/01/1882, từ Chợ Quán “
Kính gởi các vị trong Hội Đồng Thuộc Địa”, Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký viết rõ hơn về mục đích các tác phẩm của ông:
“
Thưa quí vị,
Tôi hân hạnh gởi đến quí vị một bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn.
Làm như vậy, ý định của tôi là để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp mà tôi đã trình bày trước đây trong các thư tôi viết vừa cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban Phụ trách Cứu xét những tác phẩm của tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam" (Nguyễn Sinh Duy, “
Cuốn sổ bình sinh của Trương Vĩnh Ký”, NXB Nam Sơn, Sài gòn, tháng 3,1975).
Hàng Tình: “
Có quá lời không chưa rõ, nhưng ai đó đã từng bảo: “Với việc Latin hoá chữ viết tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã đặt Việt Nam tiến bước văn minh, hòa nhập cùng nhân loại trước các dân tộc Đông Á khác 300 năm”. Không phải ngẫu nhiên mà từ cuối thế kỷ XIX, và đầu thế kỷ XX ngay giới trí thức Nho học Việt Nam cũng đã quyết liệt cổ suý, truyền bá chiến lược cho sự lớn mạnh của Quốc ngữ, đẩy hệ thống chữ tượng hình, chữ Hán - Nôm vào cáo chung, để rồi chúng ta có được một di sản ngôn ngữ/chữ Việt như ngày hôm nay”.
Tại sao Hàng Tình phải viết “
có quá lời không chưa rõ”? Rõ là “quá lời” lắm chứ. Vì ai cũng biết những lời nhận xét trên phát xuất từ Nguyệt san MISSI [do các cha Dòng Tên (một dòng tu với những lời thề rất thiếu tính người) người Pháp điều khiển]. Vatican thì mở “Hội thảo” về Đắc Lộ, còn MISSI thì giật tít "
Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ". Chẳng lẽ ông Hàng Tình không hiểu nổi “tính khách quan” trong câu tục ngữ của người Việt “mẹ hát con khen” à?
Đắc Lộ là một người không thật thà, hay phóng đại về việc làm của mình tại An Nam. Và những “bốc phét” của ông ta đã bị Yoshiharu Tsuboi lột tả trong cuốn
Catholicism et Sociétés Asiatiques, trg. 136, về "nghệ thuật" phóng đại sự việc để lừa dối chính quyền Pháp cũng như Tòa Thánh Vatican của Rhodes:
"Vào khoảng 1650, Alexandre de Rhodes tuyên bố rằng, người Việt Nam cải đạo theo Ca Tô giáo với nhịp độ 15000 một năm, con số mà khoảng hai mươi năm sau, những thừa sai Pháp cho rằng đã phóng đại, vì họ chỉ thấy có độ 60.000 thay vì 200.000 tín đồ Ki Tô như các giáo sĩ dòng Tên đã tuyên bố”.
Hàng Tình: “
Suốt 20 năm gắn bó với Việt Nam, đến và đi thầm lặng, rồi tạo ra thứ chữ Việt có kiểu ký hiệu phổ biến như bao dân tộc châu Âu, Mỹ, Phi, Úc đó, Alexandre de Rhodes đã có đến 6 lần bị chính quyền phong kiến Việt Nam, chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh... trục xuất (nhưng ông vẫn luôn tìm cách để được quay lại). Khi về châu Âu, ông vẫn đeo đuổi cho ngôn ngữ Việt, bỏ ra tiếp 6 năm nữa để hoàn thành công trình ngôn ngữ ấy (bộ Từ điển Việt - Bồ - La “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum”, vào năm 1651, tại Italia) cho sứ mệnh tinh thần của mình (rao giảng Phúc Âm), cùng lúc cho văn hoá Việt, dân tộc Việt”.
Hàng Tình ngày càng lộ rõ mình là một kẻ “Tàng Hình” trong đánh tráo khái niệm. Vì viết như vậy là không lương thiện với lịch sử, bởi nó sẽ làm cho người đọc (ít tiếp cận thông tin về Đắc Lộ) hiểu lầm rằng Đắc Lộ đến Việt Nam khi ấy chỉ để “
tạo ra thứ chữ Việt…”, “
theo đuổi ngôn ngữ Việt”. Hàng Tình nên đọc lại lịch sử về Đắc Lộ và xem 6 lần bị trục xuất ấy có phải do “theo đuổi ngôn ngữ Việt” không?
Hàng Tình tìm người “bảo kê”: “
Chúng ta - dân tộc Việt Nam - mang ơn ông ấy (Alexandre de Rhodes) là một sự thật!”. Ông Võ Văn Kiệt - vị cố Thủ tướng được dân yêu quí và ngưỡng vọng, từng bảo thế. Những tháng ngày về hưu, ông Kiệt càng nghĩ nhiều hơn về công lao của Alexandre de Rhodes (ông tự đặt tên Việt cho mình là Đắc Lộ). Và thế là ông đã mời điêu khắc gia Phạm Văn Hạng và nhà sử học Dương Trung Quốc đến nhà ở TP.HCM để “đặt hàng”, nhờ tạc cho được một bức tượng về Alexandre de Rhodes, mà ông bảo trước hết cho chính ông, để ông với tư cách một người Việt tỏ lòng tri ân người có đóng góp cho dân tộc yêu dấu mình. Nhưng rồi buộc phải trách nhiệm hơn, ông bảo với nghệ sĩ Hạng và ông Quốc: “Đợi khi nào thuận lợi, cố tìm cách để tượng đấy được đặt ở Thủ đô Hà Nội, chúng ta biểu thị một sự hàm ơn, và vinh danh người có công, tỏ rõ sự quí trọng văn hoá, khoa học...”.
Tôi không biết đây là lời khen hay chê ông cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Vì ông Kiệt không thể “lớn lối” đại diện dân tộc này để mang ơn một trong những kẻ đã chủ mưu dẫn binh đến cướp nước và đồng hóa dân tộc ta được. Ông Kiệt tạc tượng, hay “cúc cung bái” Đắc Lộ là quyền tự do cá nhân của ông ấy. Nhưng việc “
Đợi khi nào thuận lợi, cố tìm cách để tượng đấy được đặt ở Thủ đô Hà Nội, chúng ta biểu thị một sự hàm ơn, và vinh danh người có công, tỏ rõ sự quí trọng văn hoá, khoa học...” (nếu đúng như Hàng Tình nói) thì là một việc làm hồ đồ, xúc phạm đến tình cảm dân tộc và máu xương đã đổ xuống vì độc lập dân tộc của đồng bào.
Và tôi cũng không nghi ngờ gì về việc ông Dương Trung Quốc tại sao lại a dua bàn bạc cái việc “đại sự” này, vì ông cũng từng phát biểu: “
Nếu nói cho đủ thì trong tiến trình lịch sử của mình, Việt Nam lại còn có cơ hội tiếp cận (vì lý do chiến tranh và ý thức hệ) với nhiều nền văn minh…” và “Chiến tranh thật khốc liệt với nhiều tội ác và thương tích nhưng đó là một thế kỷ đủ giúp Việt Nam bứt ra khỏi cái thế giới Trung Hoa truyền thống không chỉ về chính trị mà quan trọng hơn là sự tiếp nhận những giá trị văn của văn hoá phương Tây, trở thành một phần di sản và bản sắc của văn hoá Việt Nam hiện đại”.
Đó là nhận thức “không vỏ dưa thì vỏ dừa” về chiến tranh của ông Dương sử h(ọc). Miễn chê!
Một cái tên đường ở Tp.HCM (và chỉ nên có ở Tp.HCM) đã là quá đủ để dành cho Alexandre de Rhodes. Khi ông Võ Văn Kiệt còn đương chức đã “thỏa thuận” theo lời đề nghị “ngoại giao” của quốc gia Vatican để tôn vinh cho Đắc Lộ. Việc làm này khi ấy vốn dĩ đã là việc làm “xé rào dư luận”, nếu không muốn nói là “đi đêm”. Người ta nghi ngờ về bộ óc của những người “thẩm định”, vì họ đã có đủ tư cách và thẩm quyền văn hóa để làm điều đó hay không, hay do họ bị quan (tiền) chi phối. Chỉ cần đọc kỹ lịch sử về Đắc Lộ đủ thấy một số người đã đánh tráo sự thật nhằm đưa một kẻ cướp nước với âm mưu đồng hóa thành "tượng đài" của dân tộc. Muốn làm điều này nhanh gọn, không có việc “thiết thực” hơn là mở “Hội thảo khoa học”. “Hội” thì có, “thảo” thì không, còn “khoa học” thì vô cùng lờ mờ.
Hàng Tình: “
Với Alexandre de Rhodes, tượng ông đã được tạc xong (bằng đá hoa cương, cao 3m, rộng 2m, nặng 43 tấn) lâu rồi, đang để ở ngoại ô thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh Bình Dương), nhưng vì người “bảo hộ” cho sự chào đời (và tồn tại) của nó cũng đã khuất, nên ông Hạng lẫn ông Quốc giờ chỉ nhìn tượng ông Rhodes rồi nhìn vào nhau (!), bởi không biết phải “đặt đâu”, và “làm sao đặt được”, dù biết rằng động thái tri ân ấy vào những năm 1941 đã từng diễn ra (do Hội Trí Tri và Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ người Việt ở Việt Nam thực hiện): Một bia vinh danh Alexandre de Rhodes được đặt ngay bên trái tim Thủ đô, ở hồ Gươm”.
N
gười Việt không bao giờ quên ơn những người nước ngoài có đóng góp về văn hóa, khoa học cho dân tộc. Nhưng những người nước ngoài đó không thể là những kẻ vận động binh đao để tiến hành chiến tranh xâm lược với âm mưu đồng hóa. Đó chính là thái độ ứng xử rất phân minh của người Việt. Vì vậy Hàng Tình so sánh Đắc Lộ với Pasteur, A.Yersin, Calmette, Marie Curie… là rất khập khiễng.
Năm 1941 Hội Trí Tri cùng với Hội Truyền bá Quốc ngữ đã quyên góp để dựng một tấm bia kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 350 của giáo sĩ Đắc Lộ ở gần bên bờ hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu.
Cụ Hoàng Xuân Hãn viết về Hội này như sau: “Lần đầu nghe nói đến tên hội này, tôi lấy làm ngạc nhiên, rồi đáp: “
Không ai mời tôi cả. Vả chăng ngày nay ai mà chẳng học quốc ngữ; thì lập hội làm gì ? Hoặc quốc ngữ đây nghĩa là tiếng ta. tiếng và văn Việt ngữ?Lập hội với mục đích ấy cũng tốt, vì ngày nay ai cũng muốn nói tiếng tây cho thoáng, chứ không hiểu đúng tiếng ta, đến đỗi hạng lầm hiểu rằng ''yếu điểm” là điểm yếu, ngày càng nhiều”. Cụ để tôi nói dài mới ngắt lời, rồi đáp: “
Truyền bá quốc ngữ là truyền bá cách viết tiếng ta bằng những chữ la-tinh A, B, C” (
Nhớ lại hội Truyền bá quốc ngữ… - Báo
Đoàn Kết tháng 9-10-1988).
Hành động lập bia của họ ở thời điểm Pháp đang đô hộ có thể do chưa tiếp cận chính xác tư liệu để đánh giá về sự thật Đắc Lộ. Nhưng phần nào động cơ kỷ niệm của họ là trong sáng vì họ sớm nhận ra “
ngày nay ai cũng muốn nói tiếng Tây cho thoáng”. Mục đích cuối cùng của các cha đạo là người bản xứ sẽ nói và viết tiếng Tây, chứ không phải thứ chứ quốc ngữ chưa hoàn thiện như ở thời Đắc Lộ.
Hàng Tình: “
Tượng đài Nguyễn Trãi sừng sững ở Québec (Canada), hay 18 danh nhân Việt Nam được đặt tên đường ở Houston (Texas, Hoa Kỳ)... là thông điệp nhắc nhở về những giá trị đóng góp cho hạnh phúc của con người được chấp nhận và thừa nhận luôn không biên giới, huống gì “nhân vật” Alexandre de Rhodes, người hằng ngày đồng hành cùng chúng ta, đóng góp cho sự phát triển, văn minh của chúng ta. Hình như chúng ta đang mắc nợ một tượng đài, cùng dăm ba con đường phố hiền hoà mang tên “người cho ta cái chữ” ấy”.
Càng so sánh càng thấy Hàng Tình rất ngu ngơ về lịch sử. Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa thế giới, ông chẳng có âm mưu gì với nước Canada. Dĩ nhiên, về ngoại giao, các nước từng đặt quan hệ với nhau, có những ứng xử như vậy là bình thường. Ông Lê Nin chẳng có ngày nào ở Việt Nam mà Việt Nam vẫn có tượng đài của ông ta. Những tượng đài người nước ngoài được xây dựng để bày tỏ sự tôn trọng và gắn kết tình hữu nghị. Nếu những nước đó từng xây dựng tượng đài của những kẻ dẫn quân vào xâm lược đất nước họ, thì Hàng Tình (Tàng Hình) hãy đem ra so sánh, bằng không chính việc làm này, Hàng Tình đã miệt thị những danh nhân văn hóa của người Việt.
Những người Việt (đa số là Phật tử) sẽ nghĩ gì, nếu tượng đài Đắc Lộ xuất hiện ở Hồ Gươm (Hà Nội) - một mảnh đất thiêng vốn dĩ đề cao những giá trị văn hóa hòa bình. Ý nghĩa của hồ Hoàn Kiếm không chỉ bằng hành động trả vật dụng gươm thần mà còn phải trả cả cái gươm trong bụng. Đắc Lộ đã không ngừng miệt mài rèn gươm bụng, để “nhào nặn” chữ quốc ngữ dùng làm bao để bọc nó. Và chúng ta không thể tưởng tượng được rằng mỗi khi đi qua "tượng đài" Đắc Lộ chúng ta nghĩ về mảnh đất Thăng Long mà biết bao chùa chiền di sản bị thực dân Pháp kết hợp với các cha đạo nước ngoài tàn phá. Và người Phật tử sẽ nghĩ gì khi một cha đạo như Đắc Lộ từng nói rất “văn hóa” như sau: “
Bởi Tam giáo này, như nguồn độc, nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống, ...”. (
Phép giảng tám ngày). Ôi! Có lẽ nào sẽ có một “tượng đài chữ viết” cho những ngôn ngữ “thiêng liêng” như vậy sao?
Trong khi thiền sư Vạn Hạnh với tầm nhìn xa rộng cố vấn và thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long để tạo kế lâu dài cho dân tộc còn chưa có một tượng đài xứng tầm ở Thủ đô thì Đắc Lộ đang được người ta "rục rịch cổ vũ" kéo ra đứng ở Thăng Long. Trong khi hai di sản nổi tiếng của Phật giáo là chùa Báo Thiên và Báo Ân tại khu vực Hồ Gươm còn chưa được phục dựng thì Đắc Lộ (bằng đá hoa cương) lại được giật tít trên
Tia Sáng để dọn đường đến đó đứng.
Năm 1624, Đắc Lộ đến đàng Ngoài, đánh dấu sự khởi đầu của khối liên minh thực dân đế quốc Pháp-Vatican. Sau 10 năm hoạt động ở Việt Nam, Đắc Lộ đã có đầy đủ bản đồ Việt Nam, có một bản báo cáo tỉ mỉ về tình hình Việt Nam đệ trình cho Giáo hoàng ở Vatican và đồng thời đệ trình cho vua Louis XIV của Pháp vào lúc bấy giờ, kèm theo bản báo cáo đề nghị "
Đánh chiếm Việt Nam".
“Tượng đài” cho con người này? Đây quả là một huyễn thuật “hô biến” rẻ tiền mà một số người đã và đang cố tình dựng ra
TRẦN ĐIỀU